Những lợi ích của hệ thống nông lâm kết hợp

Những lợi ích của hệ thống nông lâm kết hợp

1. Lợi ích trực tiếp của nông lâm kết hợp

Cung cấp lương thực và thực phẩm: Nhiều mô hình nông lâm kết hợp được hình thành và phát triển nhắm vào sản xuất các loại thực phẩm, thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao để đáp ứng nhu cầu của các hộ gia đình. Thông thường, hệ thống VAC được phát triển rộng rãi ở nhiều vùng nông thôn của nước ta. Ưu điểm của hệ thống nông lâm kết hợp có khả năng tạo ra các sản phẩm thực phẩm và đa dạng thực phẩm trên diện tích đất mà không yêu cầu đầu vào lớn [122].

Đặc điểm của các hệ thống nông lâm kết hợp phù hợp
Các yếu tố như điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của nông lâm kết hợp trên quy mô toàn cầu
Nhu cầu và thách thức đối với phát triển bền vững ở nông thôn miền núi
Cây trồng và hệ thống canh tác trong quan điểm về sử dụng đất bền vững
Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu các hệ thống cây trồng và hệ thống canh tác
Sản phẩm từ cây: Sự kết hợp của cây ở các trang trại có thể sản xuất nhiều sản phẩm như gỗ, gỗ, dầu, vv để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho các hộ gia đình [122].

Tạo việc làm: nông lâm kết hợp bao gồm nhiều lĩnh vực nông nghiệp đa dạng đã thu hút được hành động lao động, thêm dòng thêm cho nông dân.

Tăng thu nhập hộ gia đình: Với sự phong phú của các kết quả đầu ra và ít đòi hỏi về đầu vào, các hệ thống nông lâm kết hợp có nhiều khả năng mang lại thu nhập cao cho nông dân.

Giảm thiểu rủi ro trong sản xuất và tăng cường an ninh lương thực: Nhờ có một cấu trúc phức tạp, đa dạng được thiết kế để tăng các mối quan hệ lẫn nhau (tốt) giữa các thành phần trong hệ thống, các lâm hệ thống nông nghiệp thường có độ ổn định cao đối với những thay đổi bất lợi về điều kiện tự nhiên (như dịch côn trùng , hạn hán, vv).

Sự đa dạng của các loại sản lượng giúp giảm thiểu những rủi ro của thị trường và giá cả cho nông dân. Nếu không thì nó là một nguồn thực phẩm, thực phẩm trong cuộc sống hàng ngày cho nông dân [27], [93], [97].

2. Những lợi ích của nông lâm kết hợp trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường

Nông lâm kết hợp các nguồn lực bảo tồn và nước trong đất:

Hơn 20 năm hợp tác nghiên cứu nông lâm kết hợp với kết quả nghiên cứu về sinh thái, nông nghiệp, lâm nghiệp và khoa học đất đã cho thấy hệ thống nông lâm kết hợp nếu được thiết kế và được quản lý một cách thích hợp sẽ có thể: giảm dòng chảy và xói mòn đất, duy trì mức độ mùn và cải thiện tính chất vật lý của đất và thúc đẩy các chất dinh dưỡng chu trình tuần hoàn, tăng hiệu quả sử dụng chất dinh dưỡng của cây trồng và vật nuôi. Như vậy, tăng độ phì đất, tăng hiệu quả sử dụng đất và giảm áp lực tăng dân số đối với tài nguyên đất. Ngoài ra, trong hệ thống nông lâm kết hợp bởi hiệu quả của nhà máy chất dinh dưỡng để giảm nhu cầu cao về phân bón hóa học, do đó làm giảm nguy cơ ô nhiễm nguồn nước ngầm [131].

Nông lâm kết hợp trong việc bảo tồn tài nguyên rừng và đa dạng sinh học:

Thông qua việc cung cấp một phần của sản phẩm rừng cho hộ gia đình, nông lâm kết hợp có thể làm giảm tốc độ khai thác các sản phẩm rừng tự nhiên. Mặt khác, phương pháp sử dụng hiệu quả đất AF nên giảm bớt sự cần thiết phải mở rộng đất nông nghiệp bằng cách khai hoang rừng. Vì vậy trồng nông lâm kết hợp sẽ làm giảm áp lực vào rừng tự nhiên, làm giảm tốc độ phá rừng của người dân miền núi và bảo vệ sự đa dạng sinh học của thiên nhiên [131].

Nông lâm kết hợp và làm giảm hiệu ứng nhà kính:

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng sự phát triển của nông lâm kết hợp trên một quy mô lớn có thể làm giảm nồng độ CO2 và các loại khí gây hiệu ứng nhà kính. Các cơ chế của hiệu ứng này có thể là: đồng hóa CO2 thông qua quang hợp của cây trên trang trại; tăng lượng carbon trong đất thông qua quá trình phân hủy sự ổn định và giảm nạn phá rừng [110], [111], [126], [131].

Những lợi ích của hệ thống nông lâm kết hợp

Đặc điểm của các hệ thống nông lâm kết hợp phù hợp

Đặc điểm của các hệ thống nông lâm kết hợp phù hợp

Đặc điểm của các hệ thống nông lâm kết hợp phù hợp bao gồm: 1. năng suất cao; 2. Mang tính bền vững; 3. Mức độ chấp nhận của nông dân

1. suất cao

– Sản xuất các lợi ích trực tiếp như thực phẩm, thức ăn gia súc, nhiên liệu, sợi, gỗ, cột và xây dựng, các sản phẩm khác như cao su, nhựa, dầu thực vật, thuốc thực vật …

Các yếu tố như điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của nông lâm kết hợp trên quy mô toàn cầu
Nhu cầu và thách thức đối với phát triển bền vững ở nông thôn miền núi
Cây trồng và hệ thống canh tác trong quan điểm về sử dụng đất bền vững
Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu các hệ thống cây trồng và hệ thống canh tác
Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam hoa cúc
– Sản xuất các lợi ích gián tiếp hoặc “dịch vụ” như bảo tồn đất và nước (xói mòn đất, tủ vật liệu đất, …) cải thiện độ phì của đất (compost, phân bón, chất dinh dưỡng máy bơm từ đất sâu, phân hủy và chuyển hóa chất dinh dưỡng), cải thiện điều kiện vi khí hậu (bảo vệ đá, bóng) như cây xanh, …

– Tăng thu nhập của người nông dân [97].

2. Mang tính bền vững

– Áp dụng các chiến thuật bảo tồn đất và nước để đảm bảo năng suất trong dài hạn.

– Yêu cầu một số hình thức hỗ trợ kỹ thuật để đảm bảo việc chuyển giao thu các kỹ thuật bảo tồn đặc biệt cho người nông dân đang canh tác tại sinh sống (ví dụ như các công cụ của quyền sử dụng, đất canh tác, hỗ trợ kỹ thuật và tín dụng … [97]

3. Mức độ chấp nhận của nông dân

– Kỹ thuật để phù hợp với bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia có thể chấp nhận (tương thích với các phong tục, tập quán, tín ngưỡng của người nông dân).

– Để đảm bảo sự chấp nhận cao, nông dân đã trực tiếp tham gia lập kế hoạch, thiết kế và triển khai các hệ thống nông lâm kết hợp [27], [93], [97].

Đặc điểm của các hệ thống nông lâm kết hợp phù hợp

Các yếu tố như điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của nông lâm kết hợp trên quy mô toàn cầu

Các yếu tố như điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của nông lâm kết hợp trên quy mô toàn cầu

1. Việc thay đổi chính sách để hỗ trợ phát triển nông thôn

Trong vòng 2 năm 60 và 70 của thế kỷ 20, dưới sự bảo trợ của Nhóm tư vấn nghiên cứu nông nghiệp quốc tế (CGIAR), nhiều Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế được thành lập ở nhiều khu vực của nghiên cứu trên thế giới đã trình bày nhằm nâng cao năng suất cây trồng và vật nuôi chủ yếu ở vùng nhiệt đới.

Nhu cầu và thách thức đối với phát triển bền vững ở nông thôn miền núi
Cây trồng và hệ thống canh tác trong quan điểm về sử dụng đất bền vững
Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu các hệ thống cây trồng và hệ thống canh tác
Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam hoa cúc
Tình hình sản xuất hoa cúc thế giới
Sự phát triển của các loại cây trồng ngũ cốc và kỹ thuật canh tác sản xuất có liên quan với sự nỗ lực của một số trung tâm và các chương trình quốc gia có liên quan đã thực hiện một sự thay đổi lớn về sản xuất nông nghiệp nhưng bây giờ thường được gọi là cuộc Cách mạng Xanh (Cách mạng Xanh) [104]. Trong chương trình lâm nghiệp xã hội của Ngân hàng Thế giới trong năm 1980 không chỉ chứa nhiều yếu tố của nông lâm kết hợp, mà còn thiết kế giúp người nông dân thông qua việc tăng sản lượng lương thực, thực phẩm, bảo vệ môi trường … Trong thời gian này, ngoài việc phát triển nông nghiệp, đặc biệt chú trọng FAO nhấn mạnh vai trò quan trọng của ngành lâm nghiệp trong phát triển nông thôn, nông dân và khuyến nghị rằng chính phủ cần phải đặc biệt chú ý đến lợi ích của rừng và cây gỗ để sản xuất nông nghiệp, khuyến cáo các nhà quản lý, sử dụng đất hợp gặt đập nông nghiệp và lâm nghiệp trong các hệ thống canh tác của họ [116].

2. Nạn phá rừng và suy thoái môi trường

Vào những năm 70 và đầu những năm cuối thập niên 80, sự suy thoái tài nguyên môi trường toàn cầu đang diễn ra, đặc biệt là phá rừng, đã trở thành một mối quan tâm lo lắng lớn của toàn xã hội. Sự phát triển của sản xuất nông nghiệp kết hợp với áp lực dân số, sự phát triển của nông nghiệp hóa thâm canh, độc canh quy mô lớn và khai thác rừng là nguyên nhân chính gây ra tình trạng phá rừng, suy thoái đất thất bại và đa dạng sinh học. Theo ước tính của FAO (1982) [113] nguyên nhân rẫy tạo ra hơn 70% tổng diện tích rừng bị mất nhiệt đới ở châu Phi; đất rừng bỏ hoang sau khi trồng trọt chiếm 26,5% diện tích rừng khép tán còn lại ở châu Phi, khoảng 16% ở châu Mỹ Latinh và 22,7% ở các vùng nhiệt đới của châu Á.

Xem thêm: Yêu cầu và thách thức đối với phát triển bền vững ở nông thôn miền núi
3. Sự gia tăng quan tâm trong các nghiên cứu của các hệ thống canh tác tổng hợp và hệ thống kỹ thuật truyền thống

Đã có rất nhiều kết quả nghiên cứu ban đầu ở nhiều vùng trên thế giới về hiệu quả trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên (đất, nước và ánh sáng mặt trời) và độ ổn định cao của hệ thống xen canh và hệ thống canh tác kết hợp so sánh với hệ thống nông nghiệp độc canh. Các nghiên cứu của các nhà nhân chủng học và các nhà khoa học xã hội trên hệ thống sử dụng đất đã cho thấy tầm quan trọng của các hệ thống canh tác kết hợp của bản địa / truyền thống và ghi chú để xem xét chúng trong quá trình phát triển trò chơi của các phương pháp tiếp cận mới [119].

4. Sự hình thành của Trung tâm Quốc tế Nghiên cứu về nông lâm kết hợp (ICRAF)

Vào tháng Bảy năm 1977, nhiệm vụ của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Quốc tế (IDRC) của Canada, John Bene đã tiến hành dự án nghiên cứu với các mục tiêu sau đây:

– Xác định những khoảng trống trong đào tạo và nghiên cứu lâm nghiệp thế giới.

– Đánh giá việc phụ thuộc lẫn nhau giữa nông nghiệp và lâm nghiệp ở các nước nhiệt đới có thu nhập thấp và đề xuất một nghiên cứu để tối ưu hóa sử dụng đất.

– Xây dựng các chương trình nghiên cứu lâm nghiệp để tạo ra tác động kinh tế và ý nghĩa xã hội cho các nước đang phát triển.

– Sắp xếp tổ chức và tổ chức được đề xuất để thực hiện nghiên cứu trên một cách hiệu quả và chuẩn bị một kế hoạch hành động để có được sự hỗ trợ của các nhà tài trợ quốc tế.

Mặc dù mục đích ban đầu là để xác định các ưu tiên nghiên cứu về lâm nghiệp nhiệt đới, đội Bene đã đi đến kết luận rằng để tối ưu hóa việc sử dụng các loại đất nhiệt đới, ưu tiên cần được điều tra nghiên cứu và phát triển hệ thống kết hợp lâm nghiệp với nông nghiệp và chăn nuôi. Nói cách khác, đã có một sự thay đổi trọng tâm từ các khái niệm về lâm nghiệp sang sử dụng đất rộng hơn, phù hợp hơn cả về trực tiếp (ngay lập tức) và dài hạn [101].

Các báo cáo của dự án IDRC là cơ quan quốc tế xem xét và dẫn đến sự hình thành của Hội đồng Nghiên cứu Quốc tế về nông lâm kết hợp vào năm 1977, đến năm 1991 cơ quan này đã đổi tên thành Trung tâm Quốc tế Nghiên cứu Nông lâm kết hợp nghiên cứu (Trung tâm nghiên cứu Nông lâm quốc tế – ICRAF). Kể từ khi thành lập, ICRAF được tổ chức luôn luôn đi đầu trong việc thu thập thông tin, tiến hành các dự án nghiên cứu, chuyển giao các kết quả của nông lâm kết hợp.

5. Sự hội nhập của nông lâm kết hợp trong chương trình đào tạo nông nghiệp, lâm nghiệp và phát triển nông thôn

Hôm nay, các kiến thức về nông lâm kết hợp đã được đưa vào chương trình giảng dạy tại các trường đại học và viện nghiên cứu – đào tạo trong nông nghiệp, lâm nghiệp, phát triển nông thôn và quản lý tài nguyên thiên nhiên. Tiềm năng của nông lâm kết hợp trong cải tạo đất, bảo tồn đa dạng sinh học và tài nguyên nước nói chung đã được công nhận. Về bản chất, AF thường được xem như là một hệ thống sử dụng đất có tiềm năng mang lại những lợi ích lâm sản và thực phẩm trong khi vẫn có thể để bảo tồn và phục hồi các hệ sinh thái [5], [97].

Các yếu tố như điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của nông lâm kết hợp trên quy mô toàn cầu

Nhu cầu và thách thức đối với phát triển bền vững ở nông thôn miền núi

Nhu cầu và thách thức đối với phát triển bền vững ở nông thôn miền núi

Xuất phát từ các vấn đề khác mở các tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên rừng quá mức làm cho đất ngày càng bị suy thoái, sản lượng cây trồng, vật nuôi, cây trồng độc canh giảm mạnh, dẫn đến đói nghèo ở khu vực nông thôn, đặc biệt là ở các khu vực nông thôn và miền núi ngày càng tăng. Vấn đề này đã được các nhà nghiên cứu nông nghiệp và lâm nghiệp được đề cập trong các tài liệu [41], [53], [60].

Cây trồng và hệ thống canh tác trong quan điểm về sử dụng đất bền vững
Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu các hệ thống cây trồng và hệ thống canh tác
Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam hoa cúc
Tình hình sản xuất hoa cúc thế giới
Yêu cầu môi trường xung quanh của hoa cúc
Sự tàn phá tài nguyên rừng đã làm cho hệ sinh thái rừng và hệ thống canh tác cây trồng trên đất dốc ở các vùng nông thôn của vùng nhiệt đới trở nên mong manh do xói mòn mạnh. Trước tình hình đó đặt ra vấn đề trên quy mô toàn cầu là cần thiết cho sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, quản lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên trong
hướng thay đổi kỹ thuật và thể chế để đảm bảo rằng họ đáp ứng các nhu cầu của con người của thế hệ hiện tại và tương lai. Điều đó đảm bảo sự phát triển và bảo tồn đất, nước và các nguồn tài nguyên di truyền của cây chống lại suy thoái môi trường, phù hợp kỹ thuật và khả thi về mặt kinh tế và xã hội chấp nhận [113].

Xem thêm: Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu các hệ thống cây trồng và hệ thống canh tác
Rõ ràng những thay đổi bối cảnh cho thấy, nông lâm kết hợp là một nhu cầu thiết yếu và cũng là thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững các vùng nông thôn và miền núi.

Nhu cầu và thách thức đối với phát triển bền vững ở nông thôn miền núi

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc quản lý hoạt động thanh toán

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc quản lý hoạt động thanh toán

Một là, để quản lý cơ chế hoạt động thanh toán phát triển và ổn định cần Act thanh toán dài hạn mà chỉ thay đổi về công nghệ, hoạt động và các hoạt động tổ chức của thanh toán cho phù hợp với sự phát triển kinh tế y tế của một quốc gia.

Thứ hai, các ngân hàng trung ương nên phân cấp hệ thống quản lý hoạt động của các ngân hàng thanh toán cho các hiệp hội được thành lập theo lãnh thổ, khu vực hoặc các đặc tính cụ thể của các loại hình hoạt động. Ngân hàng trung ương nên xây dựng cơ chế, chính sách, quản lý và hướng dẫn quản lý hoạt động xây dựng năng lực tổ chức của thanh toán cho các hiệp hội thanh toán.

Tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý các hoạt động thanh toán
Hoạt động thanh toán Quản lý nội dung
Khái niệm về cơ chế quản lý hoạt động thanh toán
Một số điểm nổi bật của hoạt động thanh toán trong Khối thịnh vượng chung của Úc
Một số điểm nổi bật của hoạt động thanh toán trong Liên bang Canada
Thứ ba, trong một số nền kinh tế phát triển như các nước châu Âu hoạt động thanh toán sớm được điều chỉnh bởi pháp luật về kiểm soát và thương lượng luật cụ (từ cuối thế kỷ 18), cùng với sự ra đời và phát huy vai trò của hoạt động quản lý thanh toán của các hiệp hội thanh toán và các hiệp hội tín dụng được đẩy mạnh phân cấp và rất rõ ràng (Vương quốc Anh), việc quản lý của Ngân hàng Trung ương không gây đáng kể như ở các nước khác.

Thứ tư, các nhóm dịch vụ thanh toán hoạt động ngoài tín dụng quan trọng nhất là các ngân hàng tập trung cung cấp hàng đầu:

– Ghi nợ trực tiếp và uỷ quyền thanh toán;

– Thiết lập một mạng lưới các máy rút tiền tự động;

– Xử lý tài liệu và kinh doanh xuất khẩu;

– Vận hành và ngân hàng quốc tế, Thanh toán quốc tế và chuyển tiền;

– Czech Banking, thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng, các thiết bị hỗ trợ dịch vụ;

– Dịch vụ lưu ký và quá trình kinh doanh;

– Ngân hàng điện tử, ngân hàng trực tuyến …

Xem thêm: Một số điểm nổi bật của hoạt động thanh toán trong Liên bang Canada
Thứ năm, các ngân hàng hàng đầu thấy rằng khách hàng thường xuyên sử dụng dịch vụ gộp trên hoặc gói “ngân hàng” nên luôn luôn tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng theo thời gian biểu cho mình, bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào và thông qua các phương tiện hiện đại ngày càng tăng.

Trên thực tế có 78% người Canada sử dụng máy rút tiền tự động, sử dụng mạng điện thoại hoặc máy tính để thực hiện giao dịch thông qua ngân hàng, 57% doanh số bán hàng thông qua các khoản thanh toán cá nhân được thực hiện bởi Ngân hàng ghi nợ hoặc thẻ tín dụng; Tại Anh, 100 triệu người trên trung bình có hơn 100.000 điểm nhận thanh toán thẻ ghi nợ.

Các thành tựu trong công nghệ đang giúp đẩy nhanh quá trình cung cấp dịch vụ và tạo thói quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Và trên thực tế, không phải tất cả các ngân hàng có thể cung cấp nhiều loại dịch vụ, nhưng số lượng dịch vụ ngày càng tăng. Người ta ước tính rằng hiện nay nhiều ngân hàng phổ quát trên thế giới có thể cung cấp dịch vụ cho khoảng 6.000. Nhiều loại hình dịch vụ mới đang bùng nổ, đặc biệt là Ngân hàng giao dịch điện tử thông qua mạng máy tính (E -banking, qua điện thoại, Internet banking, …) và sử dụng thẻ thông minh (smartcard), bảo hiểm an ninh và chứng khoán kinh doanh được mở rộng hơn và quan trọng hơn mà cung cấp một cách thuận lợi hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.

Thứ sáu, để đạt được mục tiêu tăng thu nhập, giảm rủi ro hoạt động trong các ngân hàng, đổi mới công nghệ ngân hàng đầu tư lớn, đặc biệt là dịch vụ thanh toán phục vụ phát triển để nâng cao tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ tín dụng bên ngoài.

Theo đánh giá của các công ty kiểm toán trên thế giới, thu nhập từ các nguồn phi lợi của tín dụng là nguồn thu phi tín dụng (Non – thu nhập Credit), chủ yếu từ phí và dịch vụ của hệ thống ngân hàng thương mại lớn trên thế giới đang ngày càng tăng. Mức trung bình chúng ta có thể nhìn thấy từ biểu đồ cũng minh họa thực tế có những hệ thống NH, hoặc NH cũng có mức độ cao hơn nhiều, ví dụ như 67% (Châu Âu).

Trong cơ cấu thu nhập theo Bảng trên thể hiện: Thu nhập lãi chủ yếu bao gồm: Các khoản cho vay cá nhân, cho vay kinh doanh, sản xuất; Lãi từ đầu tư của các ngân hàng, … Doanh thu khác chủ yếu bao gồm: Tiền thu từ phát hành và thanh toán thẻ, kinh doanh và dịch vụ thu ngoại tệ, quản lý đầu tư, dịch vụ bảo hiểm và các nhiệm vụ, quản lý quỹ và tài sản, phí môi giới, dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, …

Từ giữa những năm 80 (thế kỷ trước), các ngân hàng có xu hướng tăng tỷ trọng dịch vụ tín dụng bên ngoài trong tổng doanh thu của nó. Mối quan hệ này được thể hiện qua tỷ lệ doanh thu từ lệ phí thu nhập lãi. Đây cũng là một dấu hiệu của một sự thay đổi trong hoạt động của các ngân hàng để thích ứng với thị trường đang dần bãi bỏ.

Không ngừng tìm kiếm các cơ hội để cải thiện các hệ thống truyền dẫn của các dịch vụ của mình cho khách hàng và đáp ứng nhu cầu phát triển dịch vụ tài chính trên cơ sở an toàn, nhanh chóng và thuận tiện.

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc quản lý hoạt động thanh toán

Một số điểm nổi bật của hoạt động thanh toán trong Khối thịnh vượng chung của Úc

Một số điểm nổi bật của hoạt động thanh toán trong Khối thịnh vượng chung của Úc

Việc giải quyết tại Úc tiến hành trên cơ sở các hiệp định song phương và đa phương. Thể hiện trong một số hoạt động thanh toán khác nhau sau: [14]

– Về kiểm tra và chỉ định thanh toán bằng chứng từ

Thanh toán bằng séc được thực hiện dưới sự kiểm soát của trung tâm TTBT Australia (ACH). Tám vị trí cụ thể đã được xác lập theo thỏa thuận cho việc trao đổi song phương, chứng từ. Tính về số lượng và giá trị giao dịch, thanh toán bằng séc cho hệ thống thanh toán ngày chiếm ưu thế. Trên một số mặt hàng, thanh toán bằng séc chiếm gần 50% của các tổ chức tiền TTKDTM qua các dịch vụ thông tin tài khoản và giá trị so với 75% đến 80%

Một số điểm nổi bật của hoạt động định cư ở Anh
Hoạt động thanh toán Quản lý nội dung
Khái niệm về cơ chế quản lý hoạt động thanh toán
Khái niệm về quản lý hoạt động thanh toán
Các chức năng của hoạt động thanh toán
– Về hệ thống tham gia trực tiếp

Hầu hết các hệ thống trực tiếp tham gia giải quyết việc thanh toán giá trị thấp tính chất định kỳ. Các hệ thống này cho phép công ty chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản tiền lương của người lao động của Công ty, hoặc nếu được ủy quyền cho các tổ chức tài chính, đại diện cho các công ty bảo hiểm nhân thọ, trừ phí bảo hiểm trong các tài khoản của khách hàng của họ.

Xem thêm: tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý các hoạt động thanh toán
– Trên hệ thống thanh toán điện tử cho người tiêu dùng

+ Thẻ tín dụng: làm các tổ chức dịch vụ thông tin tại Úc phát hành ba loại thẻ: Visa, Mastercard và Bankcard. Các quy tắc áp dụng của Visa và Mastercard của các tổ chức quốc tế liên quan Bankcard soạn thảo bởi Hiệp hội cũng bao gồm 9 thành viên Bankcard quyết định.

+ Chuyển tiền điện tử tại điểm bán hàng (POS): Bốn ngân hàng hoạt động trong nước và ba ngân hàng có mạng lưới POS. Các mạng lưới liên kết với nhau. Một số ngân hàng, công đoàn tín dụng và xây dựng xã hội, hoặc cá nhân hoặc thông qua tổ chức công nghiệp được kết nối thông qua một mạng lưới POS tại các ngân hàng.

– Hệ thống thanh toán có giá trị cao

Việc chuyển giao hệ thống và trao đổi giữa các ngân hàng (BITS) là một hệ thống thanh toán (dựa trên kỹ thuật điện tử), có giá trị cao, thực hiện các khoản thanh toán trái phép bị thu hồi. Về mặt cấu trúc nó cũng tương tự như hệ thống ở Anh Chaps. BITS chiếm ít hơn 1% khối lượng giao dịch thanh toán, nhưng chiếm 15% giá trị.

Việc giải quyết các nghĩa vụ liên ngân hàng giữa trực tiếp TTBT Bank, BITS thiết bị điện tử kỹ thuật và tiêu dùng để được giải quyết thông qua việc áp dụng các thủ tục giải quyết các trung tâm TTBT Australia.

– Trên các hệ thống thanh toán khác.

Bên cạnh hệ thống thanh toán cũng có một số tổ chức tham gia thanh toán khối lượng như Austraclear và RITS hệ thống của Ngân hàng dự trữ.

Một số điểm nổi bật của hoạt động thanh toán trong Khối thịnh vượng chung của Úc

Một số điểm nổi bật của hoạt động thanh toán trong Liên bang Canada

Một số điểm nổi bật của hoạt động thanh toán trong Liên bang Canada

Kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động hệ thống thông tin quản lý và hoạt động thanh toán vốn trong ngân hàng thương mại hiện đại. Việc tổ chức các hoạt động thanh toán và quản lý thông tin và quản trị trong hầu hết các ngân hàng Canada đang tập trung theo hướng của các giấy tờ giao dịch tự động trung tâm dựa trên (kiểm tra) và không chứng từ (Prince thanh toán điện tử, máy ATM, POS). Nó tạo thành một bộ máy hoàn chỉnh, trình độ linh hoạt, kỹ thuật và chuyên nghiệp trong các trung tâm cao để đảm bảo việc quản lý và điều hành giao dịch lớn trên thị trường trong nước và quốc tế, vai trò quan trọng và quyết định sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Mạng lưới chi nhánh rộng, hoạt động đa dạng, các giao dịch được ghi lại và quản lý tập trung ở cấp quốc gia, hệ thống dịch vụ thông tin đa dạng nhu cầu tư vấn kinh doanh của khách hàng, đảm bảo tính hiệu quả trong việc thanh toán mở rộng, thực hiện chức năng kiếm tiền và nâng cao hiệu quả kinh doanh ngân hàng, hạn chế rủi ro.

Một số điểm nổi bật của hoạt động định cư ở Anh
Tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý các hoạt động thanh toán
Hoạt động thanh toán Quản lý nội dung
Khái niệm về cơ chế quản lý hoạt động thanh toán
Khái niệm về quản lý hoạt động thanh toán
Ngân hàng Canada đang xử lý thông tin trung tâm và một trung tâm dự phòng để đảm bảo vận hành an toàn và liên tục của hoạt động thanh toán.

Tóm lại, do trình độ phát triển của nền kinh tế của mỗi quốc gia và năng lực quản lý của các ngân hàng trung ương rằng sự lựa chọn của thực tiễn quản lý và các phương tiện thanh toán khác nhau của mỗi quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố.

Một số điểm nổi bật của hoạt động thanh toán trong Liên bang Canada

Khái niệm và ý nghĩa của tiền lương và các khoản khấu trừ lương.

Khái niệm và ý nghĩa của tiền lương và các khoản khấu trừ lương.

Khái niệm về tiền lương và các khoản khấu trừ lương.

a1) Khái niệm về tiền lương.

Theo quan niệm của Marx: Tiền lương được biểu hiện bằng tiền của giá trị lao động của họ sinh sống.

Theo quan niệm của các nhà kinh tế học hiện đại: Tiền lương là giá cả của lao động được xác định bởi cung và cầu trên thị trường lao động.

Hướng dẫn download miễn phí bài báo khoa học từ trang Science Direct

Ở Việt Nam trong quá trình lập kế hoạch tập trung, tiền lương được hiểu là một phần thu nhập của quốc gia được sử dụng để bù đắp hao phí lao động không thể tránh khỏi được phân phối theo lao động nhà nước và người lao động trong các hình thức tiền mặt, phù hợp với các quy tắc phân phối theo lao động. Hiện nay theo Điều 55 – Bộ luật Lao động Việt Nam quy định tiền lương của người lao động sẽ được hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc.

Tiền lương là một phần của sản phẩm xã hội biểu hiện bằng tiền mặt phải trả cho người lao động căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động của người dân để bù đắp cho sự lãng phí lao động của người sử dụng để bù đắp hao phí lao động của họ và nó là một vấn đề thiết thực cho người lao động và vien.Tien lương quy định một cách chính xác, một yếu tố kích thích mạnh sản xuất, nó kích thích người lao động phấn đấu sản xuất và làm việc, nâng cao trình độ kỹ năng, cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất lao động.

Nguyên nhân những hạn chế trong quản lý nợ xấu

Công nhân sau khi sử dụng lao động để tạo ra sản phẩm thì được trả một số tiền nhất định của công việc. Xét về hiện tượng chúng ta thấy lao động được trao đổi với phần thưởng. Vì vậy, lao động có thể được coi là hàng hoá, một loại hàng hóa đặc biệt. Và tiền lương là giá cả của các mặt hàng cụ thể rằng, hàng hóa lao động. Bởi vì hàng hóa lao động nên được đưa đến việc trao đổi trên thị trường lao động trên cơ sở thỏa thuận giữa người mua và người bán, chịu sự tác động của quy luật giá trị, quy luật cung và cầu. Do đó giá của lao động sẽ khác nhau với giá cả của các thành phần của cung và cầu cũng như lao động. Vì vậy, khi lao động tiền lương được coi là giá trị giá này sẽ hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao. Giá của lao động, hoặc mức lương có thể tăng hoặc giảm tùy thuộc vào cung cầu hàng hóa lao động. Như vậy giá cả thường xuyên biến động tiền lương nhưng nó phải xoay quanh giá trị cung ứng lao động là hàng hóa thông thường khác, nó đòi hỏi một yêu cầu khách quan và tính chính xác của toàn bộ giá trị của nó. Mặt khác sự biến động giá cả như thế nào họ cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động có thể tồn tại và tiếp tục lao động.

a2) Các khái niệm về bảo hiểm xã hội, phí công đoàn lao động.

Lương được gắn liền với các khoản trích theo lương bao gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn. Đây là các quỹ xã hội thể hiện sự quan tâm của toàn xã hội cho người lao động.

Trong trường hợp công nhân tạm thời hoặc vĩnh viễn mất lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn để giảm bớt khó khăn trong cuộc sống, đó là một lợi ích để giảm bớt khó khăn hoặc cái chết … được hưởng các khoản trợ cấp để giảm bớt khó khăn trong cuộc sống, chẳng hạn như trợ cấp bảo hiểm xã hội.

VSS được tính vào chi phí các khoản để hình thành quỹ bảo hiểm xã hội, được sử dụng để chi trả cho người lao động trong trường hợp mất mát tạm thời hoặc vĩnh viễn khả năng lao động.

Các khoản thanh toán trợ cấp xã hội cho người lao động khi bị ốm, thai sản, tai nạn lao động .. được tính toán trên cơ sở tiền lương, chất lượng lao động và thời gian mà người lao động đã đóng góp cho xã hội trước đó.

Xã hội hoá việc kiểm tra y tế, các nhân viên cũng được hưởng sự chăm sóc y tế miễn phí bao gồm chi phí viện phí, thuốc men, khi bị bệnh. Điều kiện cho công nhân tại không có nhân viên y tế chi phí nhân có bảo hiểm y tế te.The bảo hiểm y tế thẻ được mua từ khấu trừ bảo hiểm y tế. Đây là một chế độ chăm sóc sức khỏe cho người lao động. Ngoài phục vụ cho các hoạt động của tổ chức công đoàn được thành lập theo pháp luật công đoàn, các doanh nghiệp phải trích một tỷ lệ quy định trên tiền lương phải trả và được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Khấu trừ phí công đoàn lao động được sử dụng cho mục đích hoạt động của tổ chức công đoàn đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người lao động.

Ý nghĩa của tiền lương và các khoản khấu trừ lương.

Tiền lương là yếu tố cơ bản quyết định tăng hoặc giảm thu nhập của người lao động, quyết định các tài liệu tiêu chuẩn của người lao động trong doanh nghiệp làm công ăn lương sống. Vì vậy, để có thể trả một cách khá chính xác, đảm bảo lợi ích cho người lao động mới, tạo ra sự kích thích, sự quan tâm nghiêm túc của người lao động đến kết quả cuối cùng của doanh nghiệp. Chúng tôi có thể nói kế toán chính xác đúng lương là một đòn bẩy kinh tế quan trọng để kích thích các nhân tố tích cực trong mỗi con người, phát triển tài năng của mình, chủ động, tinh thần trách nhiệm và nhiệt tình của nhân viên dưới hình thức trong những động lực quan trọng của sự phát triển kinh tế.

Mặt khác, tiền lương là một trong những chi phí của chi phí kinh doanh hơn nữa là tỷ lệ đáng kể. Mục đích của kinh doanh là để giảm thiểu chi phí và tối đa hóa lợi nhuận, nhưng ngoài việc chú ý đến quyền lợi của người lao động. Vì vậy, làm thế nào và làm thế nào để đảm bảo quyền lợi cả người lao động và đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp. Đó là vấn đề của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, tiền lương kế toán và các khoản khấu trừ lương không có nghĩa là thúc đẩy sự tích cực, chủ động, sáng tạo nhân viên mà còn góp phần đáng kể các nhà quản lý sử dụng vốn hiệu quả tiến tức là hầu hết chi phí hợp lý để giúp các doanh nghiệp có lợi nhuận. Cung cấp thông tin đầy đủ về tính chính xác tiền lương của doanh nghiệp, vì vậy các doanh nghiệp phải điều chỉnh kịp thời, doanh thu hợp lý cho giai đoạn tiếp theo.

Tiền lương và các khoản trích theo lương sẽ là nguồn thu nhập chính, thường là do người lao động, đảm bảo tái sản xuất và mở rộng của lao động, kích thích người lao động hoạt động hiệu quả khi sản xuất kế toán doanh nghiệp kinh doanh lương và các khoản trích theo lương được hạch toán chính xác hợp lý công bằng.

Bên cạnh đó công nhân lương cũng phụ cấp phụ cấp trợ cấp xã hội, Y tế … Chúng sẽ góp phần giúp đỡ, động viên nhân viên và tăng chúng trong các trường hợp khó khăn tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động.

Khái niệm và ý nghĩa của tiền lương và các khoản khấu trừ lương.

Khái niệm tiền lương

Khái niệm tiền lương

Sự phức tạp về tiền lương đã thể hiện ngay trong quan điểm triết lý về tiền lương. Trên thực tế, khái niệm và cơ cấu tiền lương rất đa dạng ở các nước trên thế giới.

Ở Pháp “Sự trả công được hiểu là tiền lương, hoặc lương bổng cơ bản, bình thường hay tối thiểu và mọi thứ lợi ích, được trả trực tiếp hay gián tiếp bằng tiền hay hiện vậ, mà người sử dụng lao động trả cho người lao động theo việc làm của người lao động”. 

Khái niệm về cấu trúc vốn tối ưu

Ở Nhật Bản:Tiền lương là thù lao bằng tiền mặt và hiện vật trả cho người làm công một cách đều đặn, cho thời gian làm việc hoặc cho lao động thực tế, cùng với thù lao cho khoảng thời gian không làm việc, như là nghỉ mát hàng năm, các ngày nghỉ có hưởng lương hoặc nghỉ lễ. Tiền lương không tính đến những đóng góp của người thuê lao động đối với bảo hiểm xã hội và quỹ hưu trí cho người lao động và phúc lợi mà người lao động được hưởng nhờ có những chính sách này . Khoản tiền được trả khi nghỉ việc hoặc chấm dứt hợp đồng lao động cũng không được coi là tiền lương.

Kinh nghiệm thuyết trình luận văn

Ở Việt nam cũng có nhiều khái niệm khác nhau về tiền lương. Một số khái niệm về tiền lương có thể được nêu ra như sau:

“Tiền lương là giá cả sức lao động được hình thành qua thỏa thuận giữa người sử dụng sức lao động và người lao động phù hợp với quan hệ cung cầu sức lao động trong nền kinh tế thị trường”.

“Tiền lương là khoản tiền mà người lao động nhận được khi họ đã hoàn thành hoặc sẽ hoàn thành  một công việc nào đó, mà công việc đó không bị pháp luật ngăn cấm” .

“Tiền lương là khoản thu nhập mang tính thường xuyên mà nhân viên được hưởng từ công việc”, “Tiền lương được hiểu là số lượng tiền tệ mà người sử dụng lao động trả cho người lao động khi họ hoàn thành công việc theo chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định hoặc hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động”.

Tiền công chỉ là một biểu hiện, một tên gọi khác của tiền lương. Tiền công gắn trực tiếp hơn với các quan hệ thỏa thuận mua bán sức lao động và thường được sử dụng trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, các hợp động dân sự thuê mướn lao động có thời hạn. Khái niệm tiền công được sử dụng phổ biến trong những thỏa thuận thuê nhân công trên thị trường tự do và có thể gọi là giá công lao động. (Ở Việt nam , trên thị trường tự do thuật ngữ “tiền công” thường được dùng để trả công cho lao động chân ta, còn “thù lao” dùng chỉ việc trả công cho lao động trí óc).

Từ các khái niệm trên cho thấy bản chất của tiền lương là giá cả sức lao động được hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động. Tiền lương có những chức năng sau đây:

+Chức năng thước đo giá trị sức lao động: Tiền lương biểu thị giá cả sức lao động có nghĩa là nó là thước đo để xác định mức tiền công các loại lao động , là căn cứ để thuê mướn lao động , là cơ sở để xác định đơn giá sản phẩm .

+Chức năng tái sản xuất sức lao động: Thu nhập của người lao động dưới hình thức tiền lương được sử dụng một phần đáng kể vào việc tái sản xuất giản đơn sức lao động mà họ đã bỏ ra trong quá trình lao động nhằm mục đích duy trì năng lực làm việc lâu dài và có hiệu quả cho quá trình sau. Tiền lương của người lao động là nguồn sống chủ yếu không chỉ của người lao động mà còn phải đảm bảo cuộc sống của các thành viên trong gia đình họ. Như vậy tiền lương cần phải bảo đảm cho nhu cầu tái sản xuất mở rộng cả về chiều sâu lẫn chiều rộng sức lao động.

+Chức năng kích thích:Trả lương một cách hợp lý và khoa học sẽ là đòn bẩy quan trọng hữu ích nhằm kích thích người lao động làm việc một cách hiệu quả .

+Chức năng tích lũy: Tiền lương trả cho người lao động phải đảm bảo duy trì được cuộc sống hàng ngày trong thời gian làm việc và còn dự phòng cho cuộc sống lâu dài khi họ hết khả năng lao động hay gặp rủi ro.

Liên quan đến tiền lương ở Việt nam còn có một số khái niệm như:

-Tiền lương cơ bản: Là tiền lương được chính thức ghi trong các hợp đồng lao động, các quyết định về lương hay qua các thỏa thuận chính thức.

Tiền lương cơ bản phản ánh giá trị của sức lao động và tầm quan trọng của công việc mà người lao động đảm nhận.

Trong khu vực Nhà nước Tiền lương cơ bản được xác định như sau:

Tiền lương cơ bản = Tiền lương tối thiểu *  Hệ số lương

-Tiền lương tối thiểu: Là tiền lương trả cho lao động giản đơn nhất trong điều kiện bình thường của xã hội. Tiền lương tối thiểu được pháp luật bảo vệ.

Tiền lương tối thiểu có những đặc trưng cơ bản sau đây:

+Được xác định ứng với trình độ lao động giản đơn nhất.

+Tương ứng với cường độ lao động nhẹ nhàng nhất trong điều kiện lao động bình thường .

+Đảm bảo nhu cầu tiêu dùng ở mức độ tối thiểu cần thiết.

+Tương ứng với giá tư liệu sinh hoạt chủ yếu ở vùng có mức giá trung bình.

Tiền lương tối thiểu là cơ sở là nền tảng để xác định mức lương trả cho các loại lao động khác. Nó còn là công cụ để nhà nước quản lý và kiểm tra việc trao đổi mua bán sức lao động. Tiền lương tối thiểu còn nhằm điều tiết thu nhập giữa các thành phần kinh tế.

*Vai trò của tiền lương tối thiểu:

-Tiền lương tối thiểu là lưới an toàn bảo vệ người lao động trên thị trường lao động.

-Giảm bớt sự đói nghèo.

-Loại bỏ sự cạnh tranh không công bằng, chống lại xu hướng giảm chi phí các yếu tố sản xuất tới mức không thỏa đáng trong đó có tiền lương.

-Bảo đảm sự trả công tương đương cho những công việc tương đương (phụ nữ, nam giới, giữa các vùng khác nhau, giữa các đẳng cấp , nhóm lao động khác nhau) .

-Phòng ngừa sự xung đột giữa giới chủ và giới thợ làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế.

Ngoài các vai trò trên, ở Việt nam, tiền lương tối thiểu còn được dùng làm “căn cứ để tính các mức lương cho các loại lao động khác, thực hiện chính sách BHXH và tính trợ cấp xã hội”.

Ngày nay cũng còn nhiều quan điểm khác nhau về tiền lương tối thiểu. Có quan điểm ủng hộ quy định tiền lương tối thiểu nhưng cũng có quan điểm phản đối. Ngay ở Mỹ, các chính khách thường đòi tăng lương tối thiểu với lý do nhằm để bảo vệ quyền lợi cho công nhân thiếu tay nghề và giới trẻ, nhưng hậu quả ngược lại là hai thành phần này khó kiếm việc làm hơn, do các công ty không muốn trả lương cao cho những loại lao động thiếu tay nghề.

Một thực tế hiện nay các doanh nghiệp ở Việt nam đều trả lương cao hơn nhiều so với mức lương tối thiểu nên họ không sợ vi phạm việc trả lương dưới mức quy định. Nhưng trong khi tổng mức lương không thay đổi mà nghĩa vụ đóng góp (BHXH, BH Ytế) lại tăng lên làm cho thu nhập thực tế có khi giảm đi.

Mặt khác tiền lương thiết yếu là một lượng tiền cần thiết cho một hộ gia đình để tồn tại với những vật dụng sinh hoạt thiết yếu, được hiểu như ngưỡng nghèo. Các đạo luật về tiền lương quốc gia thường gắn lương thiết yếu với lương tối thiểu. Các đạo luật này thường được dựa trên một tập hợp một số loại hàng hóa và vật dụng thiết yếu, thường được đánh giá bằng mức giá cả (chỉ số tiêu dùng), hoặc bằng tỉ lệ lạm phát. Các đạo luật của của quốc gia thường lấy tiền lương tối thiểu làm chuẩn để có những sửa đổi cần thiết để tiền lương có thể theo kịp lạm phát và để khôi phục lại sức mua đã mất của tiền lương.

-Tiền lương danh nghĩa: Là số lượng tiền mà người lao động nhận được khi họ hoàn thành một khối lượng công việc nhất định.

-Tiền lương thực tế: Cùng một khối lượng tiền tệ nhưng ở những thời điểm khác nhau hay vùng địa lý khác nhau thì khối lượng hàng hóa hay dịch vụ mua được cũng có thể khác nhau. Như vậy Tiền lương thực tế là khối lượng hàng hóa hay dịch vụ mà người lao động nhận được thông qua tiền lương danh nghĩa.

Mối quan hệ giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế thể hiện qua công thức sau đây:

   Itldn

Itltt = ———

        Igc 

Itltt  –  Chỉ số tiền lương thực tế

Itldn –  Chỉ số tiền lương danh nghĩa

Igc   –  Chỉ số giá cả

Tiền lương thực tế giúp ta có thể so sánh về mức sống giữa các loại lao động ở các vùng hay quốc gia khác nhau. Tiền lương thực tế là một chỉ số về mức sống dựa trên các dạng tiêu dùng của người lao động và gia đình họ.

Có nhiều thuật ngữ được sử dụng để nói về sự trả lương cho lao động hoặc dịch vụ. Công ước 100 của ILO (Tổ chức Lao động quốc tế) sử dụng thuật ngữ tiền thù lao (remuneration) để nói về tiền lương như một khoản thù lao được trả trực tiếp hay gián tiếp, bằng tiền mặt hoặc dưới dạng khác do người sử dụng lao động trả trực tiếp cho người lao động và phát sinh từ sự thuê muớn người lao động .

Tiền lương là phạm trù của sản xuất hàng hóa và các quan hệ lao động thuê mướn. Mối quan tâm đến vấn đề này ngày càng tăng vì: số người làm việc vì tiền lương và sống nhờ vào tiền lương ngày càng tăng.

Trước đây chúng ta coi tiền lương thuộc phạm trù phân phối, nhưng ngày nay tiền lương được coi như một khoản chi phí cho đầu tư. Chất lượng và hiệu quả của kinh doanh ngày nay còn phụ thuộc vào các khoản đầu tư có hiệu quả hay không. Ngày nay người ta thuê nhân công để thành công chứ không phải để thất bại.Đầu tư đúng vào nguồn nhân công chất lượng là một đảm bảo cho sự thành công.

Những đặc trưng của tiền lương có thể tóm tắt trong một số đặc trưng như sau:

-Mức tăng của tiền lương được quyết định bởi các phương tiện sống khách quan cần thiết cho tái sản xuất sức lao động cả về số lượng và chất lượng phù hợp với nhu cầu phát triển xã hội.

-Tiền lương có khuynh hướng tăng lên không ngừng bởi vì bản thân giá trị sức lao động tăng lên không ngừng. Việc giảm tiền lương so với mức đã dạt được sẽ gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ đến nỗi trên thực tế không được coi là một khả năng có thể xảy ra trong một thời gian dài hay trong phạm vi mà người ta có thể cảm nhận thấy được.

-Nhịp độ phát triển của tiền lương phải chậm hơn so với nhịp độ phát triển kinh tế bởi quy luật phát triển tích lũy của tư bản nghiêng về phần cố định đảm bảo cho tái sản xuất mở rộng.

Khái niệm tiền lương

Kết quả đạt được trong công tác quản lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Kết quả đạt được trong công tác quản lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Tổ chức bộ máy quản lý được nợ để đáp ứng các yêu cầu thực tế đó đòi hỏi trong quản lý nợ xấu

Nhận thức được tầm quan trọng của việc quản lý các khoản nợ xấu, từ năm 2005 phần lớn các ngân hàng thương mại ở Việt Nam đã triển khai mô hình quản lý các khoản nợ xấu. Mô hình bao gồm một bộ phận chuyên trách các vấn đề quản lý nợ từ trụ sở chính đến các chi nhánh. Nợ phải trả từ nhóm 2 (Nợ cần chú ý) để nợ xấu (dưới chuẩn, Nợ nghi ngờ và nợ không thu hồi) là bộ phận phân tích vấn đề quản lý nợ có trách nhiệm và thẩm định cùng nhau tìm biện pháp phục hồi và điều trị.

Môi trường pháp lý cho việc quản lý các khoản nợ xấu
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc quản lý nợ xấu
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc quản lý các khoản nợ xấu
Quan điểm về quản lý nợ xấu
Nợ xấu
Lãnh đạo ngân hàng thường xuyên phân tích, đánh giá tình hình và xem xét các tác động của nợ xấu đến việc thực hiện các giao dịch ngân hàng. Kể từ đó, xác định các nhiệm vụ quản lý nợ xấu là một mục tiêu quan trọng trong mọi thời kỳ. Hội đồng Quản lý rủi ro và cấm các ngân hàng xóa nợ xấu của các lãnh đạo cấp cao chịu trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo nghiêm khắc, gần từng bộ phận, phòng ban và nhân viên. Định kỳ (hàng quý) báo cáo thanh tra về các khoản nợ xấu được thực hiện với một phân tích cụ thể các kết quả đạt được, những hạn chế còn tồn tại, phân tích nguyên nhân và đề xuất các giải pháp thích hợp. Đặc biệt, các ngân hàng có nhận thức đúng đắn về sự cấp bách của công tác quản lý nợ và có quyết tâm hành động từ Trụ sở chính đến toàn ngành. Đồng thời, các ngân hàng đã triển khai thực hiện các chính sách và đưa kết quả vào một chỉ số thu hồi nợ xấu để đánh giá hiệu quả hoạt động của các chi nhánh và toàn bộ nhân viên.

Quản lý rủi ro tín dụng đang dần hướng tới việc áp dụng tập quán quốc tế

Bằng cách này, các chính sách của Chính phủ về việc áp dụng các hiệp ước quốc tế Basel trong hệ thống ngân hàng Việt Nam (dựa trên Quyết định số 112/2006 / QĐ – TTg ngày 24/05/2006 của Ban hành Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án phát triển Việt Nam ngành ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020), sau đó đến cuối năm 2010, Việt Nam phấn đấu để thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn quốc tế áp dụng của Basel I, và không đề cập nhiều đến việc áp dụng Basel II. Các chỉ số này được thể hiện trong bảng dưới đây 03:22:

.22 Bảng 3: Một số chỉ tiêu về hoạt động ngân hàng giai đoạn 2006-2010

Tăng trưởng tín dụng bình quân (% năm) của 18% – 20%
Tỷ lệ an toàn vốn đến năm 2010 (%) Không ít hơn 8%
Những chia sẻ của các khoản vay / tổng nợ xấu đến năm 2010 (%) Dưới 5%
Nợ xấu được xác định trên các tiêu chuẩn phân loại nợ của Việt Nam, phù hợp với thực tiễn
Các tiêu chuẩn giám sát ngân hàng năm 2010
Tiêu chuẩn quốc tế Basel I, hướng ban hành các hoạt động giám sát An toàn
Nguồn: Theo quyết định 112/2006 / QĐ-TTg [41]

Tuy nhiên, đối với các ngân hàng trung ương đang tiếp tục nỗ lực nghiên cứu về việc áp dụng Basel II trong ngân hàng và quản lý rủi ro. Đáp ứng yêu cầu thực tế đó, trong thời gian gần đây, để đảm bảo hệ thống ngân hàng để phát triển hiệu quả, an toàn và bền vững, và để ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro; Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã từng bước áp dụng Công ước Basel trong công tác quản lý rủi ro ngân hàng, đặc biệt là rủi ro tín dụng, chẳng hạn như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định, quy định về trích lập dự phòng RRTD, quy định về an toàn vốn cho các rủi ro phát sinh từ việc cho vay chứng khoán … đặc biệt như sau:

Áp dụng các quy định Basel II về trích lập dự phòng RRTD

Theo Quyết định 493/2005 / QĐ – NHNN, đã được sửa đổi theo Quyết định số 18/2007 / QĐ – NHNN, tất cả các ngân hàng hoạt động tại Việt Nam phải thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD, bù đắp những thiệt hại đối với các khoản nợ của ngân hàng. Theo đó, các ngân hàng thương mại phân loại nợ theo hai cách:

– Lựa chọn 1: các quy định tại Điều 6 của Quyết định 493, các ngân hàng thực hiện phân loại nợ theo 5 nhóm dựa trên quá hạn của các khoản nợ.

– Lựa chọn 2: các quy định của Điều 7, các ngân hàng thực hiện phân loại nợ theo 5 nhóm, dựa trên kết quả của các hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng ..

Cũng theo Quyết định này, các ngân hàng phải trích lập hai loại dự phòng:

– Dự phòng cụ thể được trích ra trên cơ sở phân loại nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5. Các số dự phòng cụ thể không chỉ phụ thuộc vào giá trị của các khoản nợ và tỷ lệ trích lập dự phòng, nhưng cũng tùy thuộc vào giá trị của tài sản thế chấp.

– Dự phòng chung được áp dụng cho tất cả các khoản vay và 0,75% tổng dư nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4.

Xem thêm: Môi trường pháp lý cho việc quản lý các khoản nợ xấu
Các ngân hàng Việt Nam thực hiện theo Quyết định 493 chương trình, bên cạnh ứng dụng Basel II yêu cầu các ngân hàng phải trích lập dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng trung ương cũng dần app phương pháp đơn giản của Basel II là lắp hệ thống phân loại nợ của xếp hạng tín dụng nội bộ.

3. Một số ngân hàng lớn đã được phát triển và áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ trong hoạt động đo lường rủi ro.

Theo các công ty kiểm toán quốc tế Ernst & Young, nếu khách hàng classify và các chủ nợ theo Điều 7 của Quyết định 493 sẽ trung thực và theo thông lệ quốc tế hơn, trong khi tỷ lệ nợ xấu sẽ tăng gần gấp 2-3 lần, các ngân hàng nên dẫn đến nhiều tổn thất cho vay quy định , lợi nhuận giảm. Trong thực tế, hôm nay chỉ có một số ít ngân hàng thương mại lớn tại Việt Nam được thực hiện theo Điều 7 của Quyết định 493 về việc xây dựng các hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để phân loại nợ của khách hàng. Đó là Vietinbank, BIDV, Vietcombank, ACB, VBARD, MB và STB.

Hệ thống xếp hạng tín dụng theo thông lệ quốc tế như là một điều kiện tiên quyết cho các ngân hàng Việt Nam hoàn thiện các quy trình, thủ tục cấp tín dụng từ đó nâng cao chất lượng tín dụng của toàn hệ thống. Nó cũng giúp các ngân hàng đánh giá các thống nhất cơ sở và có hệ thống trong suốt quá trình tìm hiểu khách hàng, xem xét lại các dự án đầu tư, phân tích đánh giá, thẩm định và quyết định cấp tín dụng và xác định giá trị các khoản cho vay và hoàn thiện quy trình, chính sách tín dụng và khách hàng, trình độ quản lý ngành dịch vụ tín dụng và toàn bộ ngành công nghiệp, phân loại nợ và trích lập dự phòng RRTD.

Hoạt động kiểm soát 4. kiểm tra được tăng cường

Trước đây, trong các hoạt động quản lý nợ xấu, các ngân hàng thương mại của Việt Nam vẫn dựa trên các thử nghiệm hiệu năng kiểm soát nội bộ của ngân hàng, trong khi các hoạt động giám sát của các cơ quan bên ngoài chỉ dựa trên các hoạt động của giám sát ngân hàng trung ương là hiện nay, các ngân hàng thương mại của Việt Nam có xu hướng thay đổi của họ mô hình điều khiển, từ mô hình để mô hình kiểm soát điều khiển đơn kép, cổ đông giám sát có sự tham gia, nhà đầu tư và giám sát thị trường. Với mô hình này kiểm soát kép, các ngân hàng sẽ có một đánh giá khách quan hơn về rủi ro tiềm ẩn, do đó làm cho các biện pháp kịp thời để hạn chế các khoản nợ xấu phát sinh. Ngoài ra, cơ chế kiểm soát kép cũng đòi hỏi bản thân ngân hàng để không ngừng nâng cao chất lượng kiểm tra, kiểm toán nội bộ để đảm bảo các báo cáo tài chính minh bạch, tăng cường quản lý rủi ro hiệu quả và hiệu suất của các ngân hàng.

Kết quả đạt được trong công tác quản lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam